Tái cấu trúc thị trường chứng khoán - Những vấn đề đặt ra
31/05/2014 01:30
Việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó cốt lõi là việc hình thành và hoàn thiện các loại thị trường (vốn, nhân lực, dịch vụ, khoa học công nghệ…) đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Vấn đề phát triển thị trường vốn - thị trường “huyết mạch của nền kinh tế” có vai trò rất quan trọng. Xin đăng tải ý kiến của TS. Vũ Bằng, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, về vấn đề này
Sau các cuộc khủng hoảng tài chính, điển hình như khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998 hay khủng hoảng tài chính gần đây năm 2007-2008, các quốc gia chịu ảnh hưởng đều thực hiện việc tái cấu trúc hệ thống tài chính, với quy mô và mức độ khác nhau. Nhìn chung, việc tái cấu trúc hệ thống tài chính ở các quốc gia đó tập trung vào chủ yếu vào hai nội dung là thể chế quản lý, giám sát hệ thống tài chính và hệ thống các trung gian tài chính.
Thứ nhất, về định dạng lại thể chế quản lý, giám sát hệ thống tài chính, ví dụ như sau khủng hoảng tài chính năm 1997-1998 thì có xu hướng hình thành cơ quan quản lý giám sát tài chính hợp nhất cho cả ba lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm. Khởi đầu là Anh (FSA thành lập năm 1997), sau đó là Nhật (FSA), Đức (BaFin), Áo, Luxemburg, Liechtenstein, Thụy Sỹ (chỉ tới năm 2009, vào giữa cuộc khủng hoảng); Canada và Australia (chỉ kết hợp hai lĩnh vực ngân hàng và bảo hiểm).
Tuy nhiên, sau khủng hoảng 2007-2008, các quốc gia lại một lần nữa thay đổi mô hình quản lý giám sát tài chính. Lý do là người ta nhận diện được rằng, nguyên nhân trực tiếp từ các cuộc khủng hoảng tài chính thường bắt đầu bởi hiện tượng bong bóng giá, việc tăng giá tài sản không bền vững cũng như sự dư thừa tổng phương tiện thanh toán. Chính vì lẽ đó, ngày càng nhiều ngân hàng trung ương được trao quyền giám sát thận trọng vĩ mô, với nhiệm vụ chính là xác định và xử lý sự mất cân đối tài chính kéo dài và sự liên thông giữa các khu vực tài chính. Từ đây hình thành mô hình quản lý giám sát tài chính hai đỉnh (twin peaks) với vai trò của một cơ quan quản lý giám sát thận trọng vĩ mô nhằm ổn định hệ thống tài chính, thông thường là Ngân hàng Trung ương (ví dụ tại Anh từ đầu năm 2013).
Thứ hai, tái cấu trúc hệ thống các định chế trung gian và tùy theo mô hình tổ chức hoạt động của từng nước hoặc hậu quả rủi ro hệ thống do các định chế trung gian này có thể gây ra. Sau khủng hoảng năm 1997 tại Châu Á, nhiều giải pháp đã được các quốc gia châu Á áp dụng chẳng hạn như (i) bơm tiền ngân sách để tăng vốn cho các ngân hàng thương mại, tất nhiên với một số các điều kiện nhất định (Malaysia sử dụng 9,2 tỷ USD, chiếm tới 13% GDP, Hàn Quốc sử dụng 23,3 tỷ USD, chiếm 5% GDP); (ii) quốc hữu hóa một số ngân hàng; (iii) thúc đẩy việc hợp nhất, sáp nhập các ngân hàng yếu kém; (iv) thực hiện đồng bộ các giải pháp xử lý nợ xấu (thành lập các công ty mua bán nợ quốc gia (ví dụ như KamCo của Hàn Quốc, RCC của Nhật hay Danaharta của Malaysia....) kết hợp với các điều kiện nhằm tạo lập/hình thành thị trường nợ xấu); (v) cho phép nhà đầu tư nước ngoài nắm cổ phần chi phối tại các ngân hàng. Trong trường hợp khủng hoảng tài chính năm 2008, Mỹ đã tập trung vào việc tái cấu trúc các ngân hàng đầu tư trong đó thực hiện các giải pháp hợp nhất, sáp nhập các ngân hàng đầu tư có nguy cơ đổ vỡ vào các ngân hàng thương mại với tiềm lực tài chính mạnh hơn; hoặc chính phủ tham gia mua cổ phần và quản lý các ngân hàng này; hoặc cũng có thể cho phép các ngân hàng đầu tư đủ năng lực mở rộng sang hoạt động ngân hàng thương mại.
Đối với Việt Nam, công tác tái cấu trúc các tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tái cấu trúc nền kinh tế và đối với lĩnh vực thị trường chứng khoán (TTCK), tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán (TCKDCK) cũng là 1 trong 4 trụ cột chính: tái cấu trúc cơ sở hàng hóa, cơ sở nhà đầu tư, tái cấu trúc TCKDCK và tái cấu trúc hệ thống thị trường.
Về thực trạng các công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ tại Việt Nam. Có thể dễ dàng nhận thấy những mặt được như các công ty chứng khoán đã bước đầu phát huy vai trò là tổ chức trung gian trên TTCK giúp cho việc dẫn vốn và luân chuyển vốn trong nền kinh tế, thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài: lượng nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch chứng khoán liên tục tăng trưởng qua các năm. Năm 2009 có trên 800 nghìn tài khoản, năm 2010 có trên 1 triệu tài khoản và năm 2013 có trên 1,3 triệu tài khoản.
Tuy nhiên, bên cạnh đó là nhiều mặt chưa được như số lượng các tổ chức tăng nhanh, không bảo đảm hiệu quả hoạt động: Sự hình thành nhanh các CTCK dẫn đến việc cạnh tranh hết sức gay gắt, đặc biệt là cạnh tranh về thị phần môi giới (hơn 70% thị phần giao dịch tập trung vào 23 công ty chứng khoán và chỉ có chưa đến 30% thị phần giao dịch do 80 công ty chứng khoán còn lại nắm giữ).
So với các quốc gia trong khu vực, số lượng các tổ chức trung gian như vậy là khá nhiều so với quy mô như TTCK Việt Nam. Việc ra đời trong một khoảng thời gian ngắn một số lượng lớn các công ty chứng khoán có thể lý giải được trong thời kỳ thị trường mới phát triển. Điều này cũng xảy ra tương tự ở một số thị trường trong khu vực. Tuy nhiên, khi thị trường bước vào giai đoạn thoái trào trung hạn, sự đổ vỡ của các công ty chứng khoán là không tránh khỏi.
Năng lực của các TCKDCK còn nhiều hạn chế về nghiệp vụ, nhân sự, cơ sở vật chất, đặc biệt tiềm lực tài chính chưa lớn.
Về hệ thống công ty quản lý quỹ các mặt được như mặc dù ra đời trong bối cảnh khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, ngành quản lý quỹ vẫn tiếp tục duy trì hoạt động ổn định, an toàn, thận trọng dựa trên nền tảng những quy định pháp luật chặt chẽ theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế; nhiều công ty quản lý quỹ tích cực đào tạo đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm, chuyên môn, từng bước định hình một ngành kinh doanh chứng khoán bậc cao và đội ngũ nhân sự có năng lực cần thiết cho việc phát triển hệ thống an sinh xã hội sau này; Các công ty quản lý quỹ từng bước khẳng định là những nhà đầu tư tổ chức lớn, tạo sức cầu cần thiết cho các chương trình cổ phần hóa, hỗ trợ sự phát triển của TTCK, thị trường trái phiếu;
Thứ ba, một số công ty quản lý quỹ đã chủ động, tích cực huy động vốn đầu tư từ nước ngoài, từng bước tạo ra một kênh dẫn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài an toàn cho nền kinh tế; Các công ty quản lý quỹ đã phát huy vai trò là những nhà quản lý tài sản chuyên nghiệp cho các tổ chức có nhiều vốn khả dụng, đặc biệt là các doanh nghiệp bảo hiểm và các ngân hàng; góp phần chuyên nghiệp hóa các hoạt động trên thị trường tài chính, ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm, ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán đã và đang chuyển dần các hoạt động đầu tư tài chính sang các công ty quản lý quỹ, để có nhiều nguồn lực tập trung và ngành nghề kinh doanh chính. Đây là xu hướng phù hợp với điều kiện của các tổ chức tài chính, ngân hàng Việt Nam, khi mà các tổ chức này còn có quy mô nhỏ, năng lực quản trị rủi ro thấp, đạo đức nghề nghiệp chưa có, tiềm ẩn nhiều xung đột lợi ích.
Các mặt chưa được như nhiều công ty quản lý quỹ hoạt động không hiệu quả, thua lỗ nhiều. Có tới 2/3 số công ty đang hoạt động không thể huy động được quỹ. Phần còn lại chỉ quản lý danh mục đầu tư ngắn hạn, chủ yếu là nguồn vốn ủy thác từ khối các ngân hàng, bảo hiểm. Các công ty quản lý quỹ không phải là các định chế chuyên nghiệp về hoạt động tín dụng, không có hệ thống thẩm định tín dụng, vì vậy việc dùng nguồn vốn ủy thác từ các ngân hàng và cho vay lại càng rủi ro.
Năng lực hoạt động của các công ty quản lý quỹ còn hạn chế. Các công ty chưa chứng tỏ được năng lực trong hoạt động quản lý tài sản, kết quả hoạt động đầu tư cho khách hàng thấp. Có những công ty không tuân thủ quy định của pháp luật, không tách biệt tài sản của khách hàng, chưa tạo được lòng tin cho khách hàng. Đội ngũ nhân sự có trình độ, nghiệp vụ chuyên môn về quản lý tài sản chưa nhiều. Phần mềm, công nghiệ tiên tiến chỉ được thực hiện tại một số các Công ty có vốn nước ngoài và đang quản lý các quỹ đầu tư đại chúng. Phần còn lại đa số các Công ty áp dụng các phần mềm không chuyên biệt, thao tác thủ công, chỉ phù hợp với hoạt động ở mức độ thấp như hiện tại.
Hiệu quả hoạt động của các công ty quản lý quỹ là không đồng đều. 65% các công ty quản lý quỹ có vốn góp của các ngân hàng, doanh nghiệp bảo hiểm có lãi lũy kế kể từ khi thành lập. Trong số các công ty còn lại, chỉ có 28% công ty là có khả năng tạo lợi nhuận.
Về mục tiêu, nguyên tắc tái cấu trúc các TCKDCK, công tác tái cấu trúc TTCK được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), Bộ Tài chính thực hiện song hành cùng với việc tiếp tục, duy trì sự phát triển của thị trường này. Có nghĩa là, đồng thời vừa tái cấu trúc, lành mạnh hóa hoạt động của thị trường, vừa tiếp tục triển khai, phát triển các sản phẩm trên thị trường nhằm hỗ trợ và thúc đẩy nhanh hơn công tác tái cấu trúc.
Thực tế, thì việc tái cấu trúc TTCK đã được Bộ Tài chính, UBCKNN nhìn nhận từ ngay sau khủng hoảng tài chính năm 2008 và đã được chủ động tổ chức thực hiện ngay từ năm 2010, đặc biệt là đối với các TCKDCK với sự ra đời của Thông tư số 226/2010/TT-BTC quy định về các chỉ tiêu an toàn tài chính đối với các TCKDCK và Quyết định số 62/QĐ-BTC ngày 10/1/2012 của Bộ Tài chính về việc phê duyệt Đề án tái cấu trúc các công ty chứng khoán. Đề án Tái cấu trúc TTCK đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với các mục tiêu chung đối với tái cấu trúc các TCKDCK đó là cơ cấu lại hệ thống các TCKDCK phù hợp với nhu cầu, đặc điểm và quy mô phát triển của thị trường; củng cố hoạt động, nâng cao năng lực tài chính, quản trị công ty, quản trị rủi ro tại các tổ chức này theo thông lệ quốc tế.
Các mục tiêu tái cấu trúc các TCKDCK, cơ cấu lại số lượng các TCKDCK theo hướng thu hẹp số lượng, xử lý thanh lọc các TCKDCK yếu kém, không hiệu quả (không phân biệt công ty lớn hay bé); Cấu trúc lại mô hình tổ chức hoạt động của các TCKDCK nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp và khả năng kiểm soát rủi ro; Cơ cấu lại thành phần tham gia góp vốn trong TCKDCK trong đó có các ngân hàng, tổng công ty, tập đoàn, góp vốn của Nhà Nước theo hướng hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế;Tăng cường khả năng, hiệu quả quản lý, giám sát đối với hoạt động TCKDCK; Mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo lộ trình hội nhập đã cam kết.
Theo đó, chúng ta cũng cần tuân thủ các nguyên tắc để tái cấu trúc các TCKDCK như:
- Phải tuân thủ quy định pháp luật. Trường hợp các quy định pháp luật chưa đầy đủ, rõ ràng cần bổ sung, sửa đổi (chủ yếu là Nghị định, Thông tư) để có căn cứ pháp lý thực hiện.
- Cơ quan quản lý nhà nước thực hiện vai trò chỉ đạo trong việc tái cấu trúc lại các TCKDCK (ban hành quy định pháp luật, giám sát các tiêu chí và cưỡng chế thực thi), cơ quan quản lý nhà nước không làm thay các TCKDCK, mà chỉ sử dụng quyền lực của mình để yêu cầu các công ty thực hiện, kể cả giải pháp rút giấy phép hoạt động nếu các công ty không đáp ứng được các điều kiện.
- Việc tái cấu trúc các TCKDCK được thực hiện theo lộ trình, có bước đi thận trọng, chắc chắn, không làm xáo trộn hoạt động của TTCK cũng như các hoạt động kinh tế xã hội của đất nước, đảm bảo lợi ích hợp pháp khách hàng.
- Xử lý tốt mối quan hệ giữa các TCKDCK, ngân hàng và tổ chức bảo hiểm đảm bảo quản trị rủi ro, đồng thời sử dụng các nghiệp vụ thị trường để tái cơ cấu thông qua cơ chế góp vốn minh bạch (đặc biệt là việc tham gia của các ngân hàng thương mại đối với TTCK) và các sản phẩm liên kết thị trường được phép áp dụng theo quy định của pháp luật.
Tình hình triển khai tái cấu trúc các TCKDCK
Hoàn thiện khung pháp lý
Để đẩy mạnh công tác tái cấu trúc các TCKDCK, rất nhiều văn bản chính sách trong thời gian vừa qua đã được ban hành kịp thời, cụ thể như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định về an toàn tài chính, theo hướng rút ngắn thời gian khắc phục nhằm giảm bớt số lượng các định chế trung gian.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định về tổ chức, hoạt động theo hướng siết chặt quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ của các công ty chứng khoán; thể chế hóa các yêu cầu, tiêu chí, điều kiện về hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ, quản trị rủi ro và quản trị điều hành doanh nghiệp.
Thứ ba, mở cửa thị trường theo cam kết WTO, cho phép hình thành TCKDCK 100% vốn nước ngoài theo cam kết WTO nhằm tăng sức cạnh tranh trên TTCK.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống quản lý, giám sát dựa trên rủi ro nhằm tăng cường khả năng, hiệu quả quản lý nhà nước, giám sát đối với các TCKDCK này theo tiêu chuẩn quốc tế. Đây thực chất là hệ thống các tiêu chí kỹ thuật nhằm cảnh báo trước rủi ro trong hoạt động của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ. Kết quả giám sát sẽ làm cơ sở cho việc thanh tra, kiểm tra hoạt động các tổ chức này.
Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để thúc đẩy việc tái cấu trúc các TCKDCK và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức này.
Kết quả thực hiện
Căn cứ Đề án Tái cấu trúc TTCK đã được phê duyệt và dựa trên cơ sở các văn bản pháp lý đã ban hành, đặc biệt là tỷ lệ vốn khả dụng, UBCKNN đã phân loại các công ty chứng khoán thành 4 nhóm, từ đó có các giải pháp phù hợp để xử lý.
Từ 103 nay công ty chứng khoán chỉ còn 89 công tycòn hoạt động có nghiệp vụ Môi giới chứng khoán; từ 47 nay chỉ còn 41 công ty quản lý quỹ đang hoạt động. Các CTQLQ hoạt động kém hiệu quả, cổ đông là các cá nhân đang dần được thay thế bởi các CTQLQ trực thuộc các tập đoàn tài chính lớn, có tình hình tài chính lành mạnh và năng lực cao trong công tác quản trị công ty. Kết quả tái cấu trúc sau một năm cho thấy đã thu hẹp khoảng gần 20% số lượng các TCKDCK.
Giải pháp tái cấu trúc các TCKDCK trong thời gian tới
- Quyết liệt thực hiện công tác tái cấu trúc, thu hẹp số lượng các TCKDCK. Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung các quy định nhằm thắt chặt hoạt động của các TCKDCK, đặc biệt trong công tác quản lý tài chính (huy động vốn và sử dụng vốn) tại các tổ chức này; minh bạch hóa và bảo đảm an toàn tài chính (cơ chế quản lý tài chính, các khoản phải thu/phải trả). Phối hợp với Vụ Chế độ kế toán trình Bộ cho ban hành chế độ kế toán đối với các công ty chứng khoán theo giá trị hợp lý nhằm lành mạnh hóa và minh bạch hóa hoạt động tài chính của các tổ chức này, loại bỏ các rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống tài chính. Trong trường hợp cần thiết, tiếp tục xem xét bổ sung quy định về an toàn tài chính nhằm rút ngắn quá trình tái cấu trúc hệ thống các TCKDCK.
- Tăng cường rà soát, đánh giá, phân loại công ty chứng khoán và thực hiện kiểm tra, hoạt động công ty chứng khoán, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
- Áp dụng thực hiện giám sát dựa vào rủi ro trên cơ sở Quy chế hướng dẫn xếp loại công ty chứng khoán (CAMEL) để có thể chủ động hơn trong việc giám sát, kiểm tra các công ty chứng khoán.
- Tiếp tục thực hiện phân loại công ty chứng khoán thành 4 nhóm như Đề án tái cấu trúc TTCK và doanh nghiệp bảo hiểm đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt. Trên cơ sở quy định về chỉ tiêu an toàn tài chính tại Thông tư 226/2010/TT-BTC xử lý nghiêm những công ty vi phạm về an toàn tài chính đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật.
- Tăng cường quản lý giám sát chặt hoạt động của công ty chứng khoán. Đặc biệt đối với các công ty thuộc diện kiểm soát, kiểm soát đặc biệt. Xử lý nghiêm những công ty vi phạm quy định pháp luật để nâng cao tính tuân thủ trong hoạt động của công ty chứng khoán.
- Tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính, khuyến khích việc hợp nhất, sáp nhập các TCKDCK. Sử dụng công cụ hợp nhất, sáp nhập là chủ đạo trong việc làm sạch bảng cân đối kế toán, hỗ trợ quá trình tự tái cấu trúc ở các tổ chức này.
- Xem xét ban hành chuẩn mực và chế độ kế toán theo giá trị hợp lý, trước mắt chỉ áp dụng đối với các TCKDCK (CTCK, CTQLQ) để thí điểm.
- Khuyến khích các TCKDCK có tình hình tài chính lành mạnh mở rộng phạm vi hoạt động tại các thị trường khác trong khu vực.
Theo kinhtetrunguong.vn