Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng và huy động vàng của Ấn Độ

10/09/2014 11:32

Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng và huy động vàng của Ấn Độ


Vàng đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, tôn giáo và văn hóa của người Ấn Độ. Trong nhiều thập kỷ qua, các gia đình Ấn Độ đã mừng lễ cưới, sinh nhật, lễ hội thông qua vàng. Truyền thống này đã được truyền từ đời này sang đời khác. Ví dụ điển hình là một nửa số vàng mà người Ấn Độ mua hàng năm chỉ để phục vụ cưới xin. Với khoảng 10 triệu đám cưới mỗi năm, quốc gia này đã và sẽ còn chứng kiến một lực mua vàng vô cùng lớn mạnh.


Một nửa lượng vàng tiêu thụ tại Ấn Độ phục vụ cho nhu cầu cưới xin. Ảnh: Gold.org

 

Ấn Độ bãi bỏ lệnh cấm giao dịch vàng đã tồn tại hơn 4 thập kỷ qua vào tháng 10/2003. Ấn Độ thành lập thị trường giao dịch vàng qua Sở Giao dịch hàng hóa Ấn Độ (MCX) và Sở giao dịch này bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2003. Tính tới năm 2010, MCX đã chiếm hơn 80% thị phần hàng hóa tương lai của Ấn Độ với hơn 2.000 thành viên đăng ký hoạt động thông qua 100.000 trung tâm giao dịch. MCX là thị trường giao dịch hàng hóa tương lai lớn thứ hai thế giới về vàng.

 

Hiện tại, Ấn Độ là nước tiêu thụ vàng cũng như nhập khẩu vàng lớn nhất trên thế giới. Theo thống kê từ Mineweb.com, năm 2012 nước này nhập tới 1.080 tấn vàng, trong đó 56% là nhập qua các ngân hàng, lượng vàng trong dân chúng khoảng 20.000 tấn. Theo Hội đồng Vàng Thế giới (WGC), nhu cầu vàng của Ấn Độ và Trung Quốc dự kiến có thể chiếm tới 45-50% cầu vàng thế giới vào cuối năm nay (2013), với mức nhập khẩu tương đương từ 900-1000 tấn/mỗi nước. Chỉ riêng trong quý 2/2013, nhu cầu vàng của Ấn Độ tăng 70% so với cùng kỳ năm 2012, mức tăng cao nhất trong vòng 10 năm qua và đạt mức 310 tấn, trong khi đó Việt Nam đứng ở vị trí thứ 8 trên thế giới về nhu cầu vàng (hình 1).

 

Trong mấy năm gần đây, kinh tế vĩ mô của Ấn Độ biến động mạnh. Tỷ lệ tăng trưởng GDP đã giảm mạnh từ mức 9,3% năm 2011 xuống còn 4,4% hiện nay. Thâm hụt cán cân vãng lai của Ấn Độ đã lên mức kỷ lục 4,8% GDP hay 88,2 tỷ USD trong năm tài chính 2012 – 2013 kết thúc vào tháng 3/2013 (so với mức thâm hụt 4,3% GDP năm 2011 – 2012). Chính phủ Ấn Độ đặt mục tiêu giảm thâm hụt cán cân vãng lai xuống còn 3,8% GDP  hay 70 tỷ USD trong năm tài chính này. Vàng là nhân tố đứng thứ hai (sau dầu) đóng góp vào thâm hụt cán cân vãng lai của Ấn Độ, do nhập khẩu xăng dầu và vàng chiếm tới 45% tổng nhập khẩu hàng hóa năm tài chính 2012 – 2013. Thâm hụt cán cân vãng lai lớn đã tác động mạnh đến giá trị đồng Rupee. Đồng Rupee đã mất giá trên 20%trong năm tài chính 2012-2013, đây là mức mất giá mạnh thứ 2 sau đồng Yên Nhật trong rổ tiền tệ của 11 nước Châu Á,và đạt mức thấp kỷ lục 60,765 Rupee/USD vào ngày 26/6/2013.

 

1. Chính sách quản lý thị trường vàng và “chống vàng hóa” của Ấn Độ

 

Từ tháng 3/2012 trở lại đây, Chính phủ và Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (The Reserve Bank of India – RBI – Ngân hàng Trung ương của Ấn Độ) dồn dập đưa ra các quy định mới để tăng cường quản lý thị trường vàng, thậm chí kêu gọi người dân bớt “yêu” vàng, và không mua vàng, bên cạnh việc sử dụng tiết kiệm xăng dầu. Ngày 21/3/2012, RBI ra quy định các công ty tài chính phi ngân hàng không được cho vay dựa trên tài sản đảm bảo bằng vàng miếng và tiền xu vàng. Trong báo cáo định kỳ ngày 30/10/2012, RBI quan ngại việc nhập khẩu vàng tăng mạnh trong những năm gần đây do các ngân hàng cho vay mua vàng dưới mọi hình thức và điều này thúc đẩy nhu cầu vàng nhằm mục đích đầu cơ. Đến tháng 11/2012, RBI chính thức có quy định cấm các ngân hàng cho vay để mua vàng dưới mọi hình thức.

 

Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ cũng dừng kế hoạch cho phép tăng tỷ lệ danh mục cho vay dựa trên thế chấp bằng vàng từ 11% lên 15% như dự kiến trước đó, đồng thời chỉ đạo các công ty tài chính phi ngân hàng giới hạn giá trị khoản vay ở mức 60% giá trị tài sản thế chấp bằng vàng so với tỷ lệ 90 – 100% như trước đây.

 

Tháng 2/2013, RBI yêu cầu các ngân hàng hợp tác xã chỉ được phép cho vay thế chấp bằng vàng và không được phép cho vay mua vàng dưới mọi hình thức. Đầu tháng 5/2013, RBI quy định các ngân hàng được phép cho vay dựa trên tài sản đảm bảo là vàng trang sức và tiền xu vàng do ngân hàng đúc, nhưng không được phép cho vay để mua vàng dưới bất kỳ hình thức nào. Cho vay dựa trên đảm bảo bằng tiền xu vàng đối với mỗi khách hàng không được quá trọng lượng 50 gram vàng.

 

Cũng trong tháng 5/2013, RBI quy định hạn chế nhập khẩu vàng trên cơ sở ủy thác của ngân hàng chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu của đơn vị xuất khẩu vàng trang sức, rồi mở rộng sang các tổ chức khác được Chính phủ cho phép nhập khẩu vàng. Tất cả thư tín dụng (L/C) để nhập khẩu vàng dưới mọi hình thức phải được đảm bảo 100% bằng tiền mặt và việc nhập khẩu vàng sẽ phải được thực hiện theo phương thức Hồ sơ – Thanh toán, không được áp dụng phương thức Hồ sơ – Chấp thuận.

 

Cuối tháng 6/2013, tiếp theo quy định trước đó, RBI yêu cầu việc nhập khẩu vàng dựa trên tín dụng của bên mua/bên bán phải tuân thủ quy định về tỷ lệ đảm bảo bằng tiền mặt và phương thức Hồ sơ – Thanh toán, các ngân hàng phải đảm bảo không cho phép cấp tín dụng dưới bất kỳ hình thức nào để nhập khẩu vàng.

 

Hội đồng Vàng thế giới cho rằng nhu cầu vàng vật chất của Ấn Độ có thể tiến tới con số 1.000 tấn trong năm nay. Tuy nhiên, chính phủ Ấn Độ lại muốn hạn chế lượng vàng nhập khẩu không vượt quá 850 tấn và vì thế quốc gia này một lần nữa lại áp dụng các chế tài khắt khe trong việc mua và nhập khẩu vàng.

 

Trong nỗ lực nhằm giảm thâm hụt cán cân vãng lai ở mức cao kỷ lục, ngày 5/6/2013, Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ quyết định tăng thuế nhập khẩu vàng lần thứ 2 trong năm nay, từ 6% lên 8%, so với mức thuế 2% vào tháng 1/2012.

 

Ngày 22/6/2013, RBI yêu cầu các nhà nhập khẩu phải tái xuất ít nhất 20% lượng vàng nhập khẩu – thường là đồ trang sức. Sau đó, ngày 30/8/2013, RBI lại tiếp tục tăng thuế nhập khẩu vàng từ 8% lên 10%.

 

Có nhiều điểm tương đồng trong các chính sách tăng cường quản lý thị trường vàng của Ấn Độ giống với Việt Nam, đó là cùng theo hướng siết chặt, cắt bỏ dần hoạt động cho vay bằng vàng, cho vay thế chấp bằng vàng, cũng như hạn chế việc nhập khẩu vàng. Chính phủ Ấn Độ gần đây tuyên bố có thể sẽ áp dụng thêm các biện pháp hạn chế nhập khẩu vàng hơn nữa cho đến khi lượng vàng vật chất nhập khẩu đạt ở con số mong muốn.

 

Tuy nhiên, tại Ấn Độ, sự say mê giao dịch vàng vẫn được duy trì bất chấp các biện pháp tăng thuế nhập khẩu của chính phủ với mục tiêu cắt giảm thâm hụt cán cân vãng lai. Theo Hội đồng Vàng Thế giới (WGC), trên thực tế, nhu cầu vàng trang sức, vàng thỏi và tiền xu vàng tại Ấn Độ trong quý 2/2013 vẫn tăng mạnh so với cùng kỳ năm ngoái, ngay cả khi các biện pháp tăng thuế được áp dụng, cho dù nhập khẩu vàng giảm mạnh trong quý 3/2013 theo số liệu nhập khẩu chính thức.

 

Lực mua vàng kỷ lục này không xuất phát hoàn toàn từ “tình yêu” vàng. Chắc chắn người dân quyết định mua vàng một phần là do lo ngại nghèo đói cũng như sự bất ổn trong các chính sách của chính phủ. Một chính sách tốt có thể kích thích kinh tế tăng trưởng và khiến thị trường phản ứng tốt. Một chính sách tồi lại đem đến những hậu quả trái ngược. Khi người dân mua vàng cho người thân và bạn bè, cũng là lúc họ mua vàng với mục đích bảo vệ. Trong vòng 3 năm qua, từ tháng 8/2010 đến tháng 8/2013, lợi nhuận từ vàng ở Ấn Độ tính theo đồng Rupee – một đồng tiền yếu so với USD - là 49,5%, trong khi đó lợi nhuận của vàng tính theo đồng USD ở Mỹ chỉ là 12,4%.

 

Theo Thomson Reuters GFMS, tổng hợp số liệu của Hội đồng vàng Thế giới, năm 2012 có 102 tấn vàng nhập lậu vào Ấn Độ. Năm 2013, các nhà bán lẻ và các trung tâm bán vàng miếng dự đoán vàng nhập lậu vào Ấn Độ có thể lên tới 140 tấn, tăng 40% so với năm ngoái.

 

2. Kinh nghiệm của Ấn Độ trong việc huy động vàng

 

Để thu hút một phần khối lượng vàng của quốc gia do tư nhân nắm giữ (hiện tại khoảng 20.000 tấn vàng), qua đó giảm sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu vàng, Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (NHTW) cho phép các ngân hàng có đủ điều kiện được huy động và cho vay vàng, cụ thể như sau:

 

- Ngân hàng được huy động khi được NHTW Ấn Độ cho phép (hiện nay ngân hàng huy động vàng lớn nhất của Ấn Độ là Ngân hàng Nhà nước Ấn Độ). Các ngân hàng phải có cơ chế quản trị rủi ro thích hợp để phòng chống rủi ro biến động giá vàng và được phép tham gia vào các hợp đồng kỳ hạn ở Ấn Độ để bảo hiểm rủi ro. Các ngân hàng được tham gia thị trường vàng quốc tế, Hiệp hội vàng London hoặc sử dụng các hợp đồng OTC để phòng ngừa biến động giá vàng theo các quy định về kiểm soát ngoại hối. Đồng thời, các ngân hàng phải thiết lập hệ thống kế toán phù hợp, cơ chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ và công bố thông tin bao quát các hoạt động liên quan đến vàng bao gồm cả huy động vàng.

 

- Một số đặc điểm huy động vàng ở Ấn độ:

 

+ Hình thức: huy động tiết kiệm hoặc phát hành chứng chỉ huy động vàng cho các hộ gia đình, các ngôi đền, chùa và các quỹ tôn giáo.

 

+ Kỳ hạn: thường từ 3-7 năm.

 

+ Lãi suất: Do ngân hàng huy động quy định.

 

+ Khi đến hạn sẽ được thanh toán bằng vàng hoặc tương ứng bằng đồng Rupee theo yêu cầu của người gửi.

 

+ Chứng chỉ có thể chuyển nhượng và người sở hữu không phải chịu thuế.

 

+ Người gửi vàng có thể thanh toán trước hạn sau khi gửi tối thiểu 1 năm. Ngân hàng có thể cho người giữ chứng chỉ vay đồng Rupee.

 

- Ngân hàng huy động vàng có thể: (i) cho vay vàng đối với lĩnh vực trang sức trong nước, cho vay các nhà xuất khẩu vàng trang sức; (ii) bán vàng giao ngay tại thị trường trong nước hoặc bán vàng cho các ngân hàng chỉ định khác.

 

- Ngân hàng huy động sẽ bán vàng huy động được trên thị trường trong nước để giảm sự phụ thuộc vào vàng nhập khẩu. NHTW sẽ cung cấp hợp đồng bán vàng kỳ hạn cho ngân hàng huy động vàng với một chi phí nhất định. Chi phí này cùng với lãi suất huy động trả cho người sở hữu chứng chỉ vàng sẽ tương đương với lãi suất đi vay Rupee của ngân hàng huy động.

 

Tuy nhiên, việc huy động vàng ở Ấn Độ cũng có một số vấn đề đặt ra là:

 

(i) Nhu cầu mua vàng miếng sẽ tương ứng với số lượng vàng gửi vào ngân hàng thương mại (NHTM) nên không làm giảm được sự phụ thuộc vào vàng miếng nhập khấu.

 

(ii) Chính phủ sẽ mất tiền nếu đồng Rupee giảm giá trị mạnh so với Đô la Mỹ hoặc giá vàng tăng mạnh trong suốt thời hạn gửi vàng.

 

(iii) Mất khoản thu thuế đối với lãi gửi vàng trong khi có thể đánh thuế đối với lãi tiền gửi Rupee.

 

(iv) NHTW Ấn Độ có lượng vàng dự trữ khoảng 557,7 tấn vàng (năm 2009). Số vàng này đang không mang lại lợi nhuận cho NHTW Ấn độ, tuy nhiên họ đã chọn việc cho phép NHTM đi vay vàng từ người dân và trả lãi suất. Nếu số vàng huy động tăng lên và NHTW cung cấp hợp đồng bán vàng kỳ hạn cho ngân hàng huy động thì có nghĩa là NHTW đã bán khoản dự trữ ngoại hối của mình và có thể phải giao vàng trong tương lai.

 

3. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

 

Thị trường vàng Việt Nam hiện nay có quy mô khoảng 40 tỷ USD, vẫn rất nhỏ bé nếu xét trên bình diện toàn thế giới. Theo đánh giá của Hội đồng Vàng Thế giới, thị trường vàng Việt Nam là một thị trường nhiều tiềm năng, tuy nhiên vẫn còn kém phát triển, mang nặng tính thủ công, chưa áp dụng được các công nghệ sản xuất và nghiệp vụ kinh doanh hiện đại trên thị trường quốc tế. 

 

Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý thị trường vàng và huy động vàng của quốc tế, đặc biệt kinh nghiệm của Trung Quốc và Ấn Độ, có thể rút ra các bài học sau.

 

(i) Thị trường vàng cần quản lý theo quy luật cung – cầu trên cơ sở liên thông, gắn kết với thị trường vàng thế giới. Tuy nhiên, do vàng là tài sản quốc gia và là hàng hóa mang tính tiền tệ đặc biệt nên Nhà nước có cơ chế quản lý sao cho huy động tối đa nguồn lực này phục vụ mục tiêu phát triển và bình ổn kinh tế vĩ mô, có thể điều tiết được thị trường khi cần.

 

(ii) Cùng với quá trình tự do hoá thị trường tài chính, thị trường vàng cũng cần tự do từng bước nhằm phù hợp với trình độ phát triển chung của thị trường tài chính. Theo kinh nghiệm của nhiều nước trong đó có Trung Quốc, tiến trình tự do hoá thị trường vàng nên bắt đầu từ tự do hoá thị trường vàng vật chất, sau đó đến kinh doanh vàng tài khoản và cuối cùng là từng bước xoá bỏ kiểm soát đối với hoạt động xuất nhập khẩu vàng.

 

(iii) Ngân hàng Trung ương (NHTW) là đầu mối quản lý thị trường vàng và điều tiết thị trường này theo quy luật cung cầu thị trường. Quản lý của NHTW cần phải hướng tới việc kiểm soát được việc kinh doanh, đầu tư vàng của đối tượng đầu tư, tiêu dùng. Muốn vậy, NHTW cần xây dựng cơ sở pháp lý đảm bảo đối tượng đầu tư, tiêu dùng chỉ có thể mua, bán vàng trên mạng lưới mà NHTW thiết lập (như các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các quỹ đầu tư, sàn/sở giao dịch vàng,…). Từ đó, Chính phủ không cần thiết phải cấm người dân mua, bán và tích trữ vàng miếng mà vẫn quản lý được nguồn lực tài chính quốc gia, đủ năng lực và công cụ để đưa ra các biện pháp cần thiết, kịp thời nhằm ổn định và điều tiết thị trường khi cần.

 

(iv) Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thành lập Sở giao dịch hàng hoá trong đó có giao dịch vàng (trên cơ sở vàng được coi như một loại hàng hóa đặc biệt) như mô hình của Sở giao dịch vàng Thượng Hải để đưa thị trường vàng trong nước liên thông với thị trường vàng quốc tế. Kinh nghiệm từ các quốc gia khác cho thấy, việc đưa hoạt động kinh doanh vàng vào quản lý theo thị trường tập trung mang lại hiệu quả cao về kinh tế, xã hội.

 

Tiến sĩ Tô Ánh Dương - Viện Kinh tế Việt Nam